0366
2
0366 KINH PHẬ HUYẾ A DI À
H dịc : Dao ầ , am P p ư ư Ma La ập (402 N) [1] [2]
V ệt dịc : ỳ eo íc rí ị
1. ỳ V ê đ ộ [3]
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Ðức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Ðộc
nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là
bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là:
Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ðại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-
Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Ða, Châu-Lợi-Bàn-Ðà-Già, Nan-Ðà, A-
Nan-Ðà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Ðề, Tân Ðầu-Lư-Phả-La-Ðọa, Ca-Lưu-Ðà-Di,
Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Ðà, những vị đại đệ tử như thế.
Và hàng Ðại Bồ Tát, Văn-Thù- ư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Ða Bồ Tát,
Càn-Ðà-Ha-Ðề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát... cùng với các vị Ðại Bồ tát như
thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng
cùng đến dự hội [4]
2. Y báo, Chánh báo [5]
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua
phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới
đó có đức Phật hiệu là A Di Ðà hiện nay đương nói pháp.
3. Y báo trang nghiêm
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những
điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. [6]
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới,
bảy từng hàng cây, đều bằng b n chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó
tên là Cực Lạc. [7]
3
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy
dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.
Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở b n bên ao; trên
thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc
vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng,
mầu nhiệm thơm tho trong sạch. [8]
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất
bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.
Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng
những hoa t t đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn
liền trở về bổn qu c ăn cơm xong đi kinh hành. [9]
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những gi ng chim mầu sắc xinh
đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạt, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già,
Cọng-mạng; những gi ng chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần,
bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những gi ng chim đó thiệt là do tội báo
sanh ra. Vì sao?
Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức
Phật đó tên đường dữ còn không có hu ng gì lại có sự thật. Những gi ng chim đó
là do đức Phật A Di Ðà mu n làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm
ra đấy thôi. [10]
4
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng
cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ
nhạc đồng một lúc hòa chung.
Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm
dường ấy.
4. b o vô lượ t ù t ắ
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Ðức Phật đó vì sao hiệu là A Di Ðà?
Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi su t các cõi
nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Ðà.
Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó và nhân dân của Ngài s ng lâu vô lượng vô biên
a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Ðà. [11]
Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật A Di Ðà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười
kiếp.
Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là
bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng
đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm
dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều
là bực bất th i chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, s đó rất đông, chẳng phải
tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng s vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát
nguyện cầu sanh về nước đó.
5
Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một
chỗ. [12]
5. N ơ sa vã la
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà
được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A
Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc b n ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một
lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Ðà cùng hàng Thánh
Chúng hiện thân ở trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước
Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà. [13]
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh
về cõi nước Cực Lạc.
6. p ươ P ật đồ k yê t
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ
bàn của đức Phật A Di Ðà, phương Ðông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-
Tướng Phật, Ðại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa s
những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm
khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi
phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật ở
Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Ðăng Phật,
Danh-Văn-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Ðăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-
Tấn Phật... Hằng hà sa s những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra
6
tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
"Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức
Nhất Thiết Chư Phật ở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-
Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Ðại Quang Phật, Ðại-Minh Phật, Bửu-Tướng
Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa s những đức Phật như thế, đều tại nước mình,
hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật
rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công
Ðức Nhất Thiết Chư Phật ở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, T i-Thắng-Âm
Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt- anh Phật, Võng-Minh Phật... Hằng hà sa s những đức
Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam
thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh:
Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật ở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức ư-Tử Phật, Danh-Văn Phật,
Danh-Quang Phật, Ðạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa s
những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp
cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên
tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật ở Hộ Niệm
Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật,
Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tạp- ắc Bửu-
Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Ðức Phật, Kiến-Nhất-
Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di- ơn Phật... Hằng hà sa s những đức Phật như thế,
đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên
mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán
Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật ở Hộ Niệm Này". [14]
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt-Thiết Chư
Phật ở Hộ Niệm?
7
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà
thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ
nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không th i chuyển nơi
đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức
Phật nói.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát
nguyện mu n sanh về cõi nước của đức Phật A Di Ðà, thời những người ấy đều
đặng không th i chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nơi cõi
nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng
tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
7. yết k rất k ó
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của
các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta
mà nói lời nầy: "Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu,
có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não
trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian
khó tin này".
Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó
này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp
khó tin này, đó là rất khó! [15]
Ðức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả
trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng
tin nhận đảnh lễ mà lui ra. Phật nói kinh A Di Ðà.
8
Thích Nghĩa:
[1]. Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù
thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Ðà Phật.
[2]. Triều Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, qu c hiệu là
Tần nên gọi là Diệu Tần. Bậc thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng
nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp ư. Ngài Cưu Ma La Thập người
xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng
nhất.
[3]. Ông Cấp Cô Ðộc Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Ðà Thái Tử, con vua
Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung
sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai
tên của hai người để đặt tên ch n ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên vậy. Ðệ
tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Ðại A-
La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên
trong kinh thường ước lược nói s đó.
[4]. A-Dật-Ða là tên của đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Ðà Ha-Ðề Bồ Tát là ngài Bất-
Hưu-Tưức Bồ Tát - Thích-Ðề-Hoàn-Nhân là tên của Ðế Thích, vua cõi trời Ðao
Lợi.
[5]. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao rừng v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây
y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời,
chim thú..v..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Ðà cùng Bồ tát, Thanh
Văn ..v..v..
[6]. Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy,
nào tam khổ, bát khổ. Trái lại, bên cõi Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng,
nào tam lạc, bát lạc.
6.1 ổ ở cõ a Bà
Tam Khổ:
1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, s ng nay chết mai nầy đã khổ
9
lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác
nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét..v..v..
2. Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển,
như sương đầu cỏ.
3. Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát Khổ:
1. anh khổ: ở thai bào t i tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
2. Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, g i dùn, mặt
nhăn đầu bạc.
3. Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nh i xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng
không được.
4. Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút.
5. Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, mu n phước trở mang họa, cầu thọ mà
yểu vong.
6. Ái biệt ly khổ: c t nhục phân tán, sanh biệt tử ly.
7. Oán tắng tội khổ: oan gia, đ i đầu, cừu thù gặp gỡ.
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như
ngọn lửa phừng phừng không khác.
6.2 V ở ực L c
Tam Lạc:
1. Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương
kiện...
2. Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...
3. Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động...
10
Bát lạc:
1. anh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..
2. Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...
3. Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu...
4. Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...
5. Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự nhiên...
6. Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..
7. Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..
8. Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..
Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên
nhàm lìa ch n Ta bà mà nguyện về ch n Cực Lạc.
[7]. B n báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói b n báu mà chính là gồm bảy
báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói:
hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có
thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là
cây s ng, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
[8]. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi
cực lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. - Tám công đức
của nước trong ao bên Cực Lạc:trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm
thuần, êm đềm hòa huỡn, u ng vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.
[9]. Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua
vô lượng thế giới. Ði kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm
tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng... Ði kinh hành có hai điều lợi
ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng
biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
11
[10]. Tinh, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên
đường đạonhư cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không
thể khuấy r i làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh).
Thất Bồ Ðề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm,
Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Ðịnh, và Xả. Bát Thánh Ðạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư
duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và
Chánh định. Ồ trong cõi Ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo,
một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy.
Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là gi ng vật do tội báo cảm vời sanh
ra, mà do thần lực của đức A Di Ðà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu
chuyển khắp trong nước.
[11]. Ðoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Ðà, vì có hai điều
vô lượng: (1) Vô lượng quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc
hiệu là a Di Ðà.
[12]. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm) Hán dịch là bất th i chuyển, vào bực này thời một
mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị th i sụt xu ng phàm
phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực
bất th i cả, trong hàng bất th i lại có vô s bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát
chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện
nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Ðâu uất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát
vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
[13]. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới
được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành
phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Ðà cùng Quán Thế Aâm Bồ
tát, Ðại Thế Chí Bồ tát ..phóng quangđến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc.
- Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác
xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.
[14]. Người tu Tịnh Ðộ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm
Phật) và Nguyện (thiết tha mu n được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy,
lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật
ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
12
-- Hằng hà sa s : là s cát sông Hằng. ông Hằng là con s ng lớn bên Thiên Trúc,
nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Aán Ðộ Dương. Lòng
sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Ðương thời đức Phật thường nói
pháp gần bên sông, nên phàm khi mu n chỉ một s lớn quá nhiều thời mượn s cát
trong sông Hằng mà nói.
-- Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót
lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói
d i. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, hu ng nữa là rộng dài trùm khắp cả
thế giới?
-- Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên
thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung
thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho s nghìn, nên gọi là Tam
thiên đại thiên thế giới [1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Ðại thiên thế giới].
- Ðại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong
cõi nầy có vô lượng sự th ng khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.
[15]. Ngũ Trược: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại
nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2) Kiến trược: Những
điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo... (3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như
tham, sân, si, mạn bất tín... (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh
diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: thọ rất ngắn, s ng nay chết mai, mạng s ng
trong hơi thở. B n món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường
nên gọi là trược (nhơ đục).
ơhttp://www.buddhamountain.ca
Ngày 9 Tháng Tư Năm 2014